Đang tải...
Ngày đăng: 13/04/2020
Theo ông Nguyễn Thượng Hiền, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường, vấn đề xử lý rác thải ở nông thôn hiện đang gặp nhiều bất cập. Đầu tiên là vấn đề về quy hoạch không hợp lý đã dẫn đến tình trạng mỗi xã có một lò đốt chất thải, hay các bãi chôn lấp chôn lấp chất thải không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật. Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng xây dựng và dự kiến ban hành danh mục công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt khuyến cáo áp dụng phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của các địa phương, trong đó chú trọng đến các công nghệ xử lý chất thải đi kèm với các giải pháp giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế và thu hồi năng lượng.
Ngoài ra, “để tạo sự chuyển biến thực sự trong công tác quản lý về chất thải rắn, trong dự thảo Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi đang chuẩn bị trình Quốc hội xem xét, chúng tôi cũng đã cụ thể hóa quan điểm người gây ô nhiễm phải trả tiền,” ông Nguyễn Thượng Hiền, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường thông tin. Theo đó, người phát sinh ô nhiễm buộc phải đóng góp kinh phí cho Nhà nước theo khối lượng chất thải phát sinh hàng ngày để tăng cường cho việc thu gom xử lý chất thải rắn nói chung và chất thải rắn sinh hoạt nói riêng.
Đối với chất thải rắn khu vực nông thôn căn cứ vào điều kiện kinh tế-xã hội đặc thù sẽ có các quy định cho phù hợp với thực tế. Trong đó một trong những nội dung quan trọng là nâng cao nhận thức của người dân trong việc phân loại chất thải tại nguồn và sự giám sát của cộng đồng của các tổ chức, chính trị-xã hội trong việc thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn nông thôn. “Đặc biệt, không khuyến khích đầu tư các cơ sở xử lý xử lý chất thải rắn sinh hoạt ở quy mô cấp xã,” ông Hiền nói thêm.
Mặt khác, để quản lý tốt rác thải ở các vùng nông thôn, ông Hiền cũng đã đưa ra một số khuyến nghị như: Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng với Bộ Xây dựng đã tham mưu Chính phủ ban hành Quyết định việc phê duyệt điều chỉnh Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050. Trong đó, có yêu cầu rõ việc đầu tư xây dựng mới cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt ở nông thôn phải đảm bảo tỷ lệ chôn lấp sau xử lý không quá 20%.
Các địa phương phải áp dụng các công nghệ tốt, hiện đại, thân thiện với môi trường. Về phía các địa phương, cần rà soát lại các điểm lưu giữ chất thải sinh hoạt nông thôn; khẩn trương xây dựng kế hoạch cụ thể, lộ trình phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của địa phương để chấm dứt việc sử dụng các lò đốt chất thải rắn sinh hoạt, các bãi chôn lấp không đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường hiện nay. “Chúng tôi cũng đề nghị các địa phương thực hiện đúng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về lò đốt chất thải rắn sinh hoạt. Nếu thực hiện đúng quy chuẩn này sẽ không còn tồn tại những lò đốt nhỏ quy mô cấp xã không đảm bảo yêu cầu bảo vệ môi trường,” ông Hiền nhấn mạnh.
Việc đầu tư trong công tác quản lý chất thải nói chung, trong đó có việc đầu tư cho việc thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải sinh hoạt nông thôn cũng chưa được quan tâm đúng mức. Trong khi, việc lựa chọn công nghệ xử lý phù hợp với điều kiện, đặc điểm kinh tế xã hội từng địa phương còn nhiều khó khăn. Hiện nay, có khoảng 71% chất thải rắn sinh hoạt vẫn chủ yếu được xử lý theo hình thức chôn lấp nhưng chỉ 16% được xử lý tại các nhà máy chế biến sản xuất phân compost, 13% được xử lý bằng phương pháp đốt. Riêng đối với việc xử lý chất thải rắn bằng phương pháp đốt hiện nay có tình trạng ở một số địa phương đầu tư xây dựng các lò đốt ở quy mô cấp xã.
Các lò đốt chất thải rắn sinh hoạt này hầu hết là các lò đốt quy mô nhỏ với công suất dưới 300kg/h. Với những lò đốt công suất nhỏ cấp xã này, hệ thống xử lý khí thải không có hoặc có nhưng không đạt yêu cầu. Mặt khác, các địa phương cũng gặp các khó khăn về nguồn nhân lực, công nhân tham gia vận hành không đủ kiến thức chuyên môn để vận hành lò đốt, trình độ vận hành của công nhân còn hạn chế, không tuân thủ các yêu cầu kỹ thuật nên không đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường. “Việc này dẫn đến khả năng không kiểm soát được chất thải thứ cấp phát sinh, đặc biệt là đối với Dioxin/Furan, cũng như không phù hợp với mục tiêu xây dựng các khu xử lý chất thải tập trung,” ông Hiền nhấn mạnh.
Từ năm 2015, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ khuyến cáo về việc hạn chế đầu tư các lò đốt nhỏ quy mô cấp xã. Sau đó, Chính phủ cũng đã có văn bản chỉ đạo các địa phương hạn chế việc đầu tư các lò đốt chất thải cấp thôn, xã. Đến năm 2016, Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp tục ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về lò đốt chất thải rắn sinh hoạt, có hiệu lực từ ngày 1/5/2016. Theo đó, trong thời hạn 6 tháng, các địa phương phải cải tạo nâng cấp các lò đốt chất thải rác sinh hoạt đảm bảo khí thải sau xử lý đạt quy chuẩn cho phép.
Theo đó, trong thời hạn 6 tháng (đến cuối năm 2016), các địa phương phải cải tạo nâng cấp các lò đốt chất thải rác sinh hoạt đảm bảo khí thải sau xử lý đạt quy chuẩn cho phép; trong lộ trình 3 năm (từ 2016-2019) phải đáp ứng toàn bộ các yêu cầu kỹ thuật cơ bản đối với lò đốt chất thải rắn sinh hoạt. Các địa phương không được đầu tư mới các lò đốt cỡ nhỏ cấp xã dưới 300kg/h; xây dựng cơ sở xử lý chất thải tập trung với công nghệ tiên tiến, hạn chế chôn lấp.
Ngoài ra, việc tổ chức thực hiện phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn cũng chưa được thực hiện có hiệu quả, dẫn đến chất thải rắn sinh hoạt khu vực nông thôn cần phải xử lý tăng về khối lượng. Mặc dù một số địa phương đã có một số mô hình đã và được triển khai, tuy nhiên đến nay chưa có đánh giá và đúc kết kinh.
Trước thực trạng nêu trên, ngày 3/2/2019, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 09/NQ-CP giao Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan đầu mối, thống nhất quản lý nhà nước về chất thải rắn và Chủ tịch Ủy ban cấp tỉnh chịu trách nhiệm toàn diện về vấn đề rác thải và xử lý rác thải tại địa phương mình. Ở cấp bộ, ngành, trong thời gian qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng Đề án tăng cường năng lực quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại Việt Nam và Dự thảo Chỉ thị về một số giải pháp cấp bách tăng cường công tác quản lý chất thải rắn để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, ban hành.